Skip to main content

Thuyết đa thân và Niết Bàn?

Nhiều người khi tìm hiểu Phật Giáo đã đặt ra những câu hỏi xa vời như: Niết Bàn là gì? Làm sao biết có kiếp sau? Vũ trụ do đâu mà hiện hữu? Con người từ đâu đến và sau khi chết họ sẽ đi về đâu? v.v. Nhưng ít khi họ nghĩ đến những vấn đề thiết thực như: Đạo Phật có đáp ứng được những nguyện vọng của chúng ta trong hiện tại không? Đối với Đạo Phật, làm thế nào để sống một đời sống hạnh phúc? Đạo Phật có chủ trương xây dựng một xã hội lành mạnh hay không?

Niết bàn là tuyệt đối, siêu việt thì chúng ta làm sao dùng những lời lẽ, những danh từ tương đối, chủ quan để bàn cãi được? Nhiều cuốn sách viết về Niết bàn, Phật tánh v.v. đã cho chúng ta thấy càng bàn luận, vấn đề càng bị hạn hẹp, khô cứng trong rừng ngôn từ ước định. Có khi còn làm vấn đề sai lạc khiến cho độc giả hiểu lầm nữa là khác.

Vậy thì các khái niệm đã nói về Niết Bàn như thế nào: Niết-bàn là mục đích tu hành, cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết-bàn được xem là đoạn diệt Luân hồi, là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện tham, sân và si. Niết-bàn không còn chịu sự tác động của nghiệp, không còn chịu quy luật nhân duyên. Vô vi. Đặc tính của nó là thiếu vắng sự sinh, thành, hoại, diệt. Niết-bàn là sự thống nhất với cái nhất thể tuyệt đối, sự bình đẳng của chúng sinh. Sự thống nhất của luân hồi với “dạng chuyển hóa” của nó. Ở đây Niết-bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi mình cùng một thể với tuyệt đối, khi mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng, mọi tham ái. Niết-bàn là sự hủy diệt các vướng mắc và tham ái thế tục, như cơ sở của sự hợp nhất với cái tuyệt đối, với Thượng đế. Niết-bàn không tách rời với thế giới này mà chính là sự trực ngộ được thể tính của Tâm, là thể tính của con người, thể tính của Phật. Niết-bàn nằm trong tính Không, đó là sự “chấm dứt cái thiên hình vạn trạng”, cái chấm dứt đó là sự vắng bóng của mọi ràng buộc thế gian. Niết-bàn là sự thống nhất với Chân như không diễn tả được, là cái luôn luôn hiện hữu, nhưng không ai nhận biết. Niết-bàn và sinh tử không hề khác nhau, đứng trên phương diện lí tính tuyệt đối mà nói. Chính cái thức vô minh của chúng ta ngăn cản không cho nhận ra cái lí tính tuyệt đối đó. Thực hiện Niết-bàn phải thông qua trí huệ và vì vậy, có khi Niết-bàn được xem là đồng nghĩa với trí huệ bát-nhã. Niết-bàn và trí huệ chỉ là hai mặt của một cái duy nhất. Niết-bàn là trạng thái của một người đã đạt trí huệ bát-nhã, đã đạt tri kiến về Tâm và ngược lại Bát-nhã là trí huệ của một người đã chứng đắc Niết-bàn.

Do trình độ giác ngộ khác nhau nên Niết Bàn được chia ra làm bốn loại:
1.    Niết Bàn Hữu Dư Y: Niết Bàn đã dứt sạch phiền não vọng hoặc trong ba cõi, nhưng còn thân của nghiệp báo dư thừa.
2.    Niết Bàn Vô Dư Y: Niết Bàn đã dứt sạch phiền não hữu lậu và không còn mang thân của nghiệp báo (dứt hết uẩn thân).
3.    Niết Bàn Tự Tánh: Niết Bàn tự tánh sẵn có của chúng sanh, nó vốn sẵn có tánh Niết Bàn không phải tu tập mới có. Như mặt gương tánh vốn sạch không phải đợi lau chùi mới hiện.
4.    Niết Bàn Vô Trụ Xứ: Niết Bàn không nơi chỗ. Các vị Bồ Tát khi giác ngộ, lao mình trong lục đạo giáo hóa chúng sanh, lấy sự sanh tử của chúng sanh làm cảnh giới. Tuy ra vào sanh tử nhưng lúc nào cũng tự tại vô ngại.
Hai loại Niết Bàn trên là của hàng Nhị thừa, hai loại Niết Bàn dưới chỉ riêng hàng Đại thừa mới có.
Thuyết đa thân liên quan với Niết Bàn ra sao?
Con người gồm có 2 phần, phần thể chất và phần tinh thần. Phần thể chất, tức là phần hình tướng bên ngoài. Mô tả và giải nghĩa đại loại như sau:


Phác đồ trên nhằm biểu thị:
1.       Tâm con người gồm 2 phần, phần phản ứng bề mặt, hoàn toàn tự động và phần ý thức. Phần phản ứng bề mặt cũng gồm 2 phần nhỏ: 1. Phần phản ứng bản năng (sơ khai, máy móc, loài vật nào cũng có) đã được lập trình sẵn cho cơ thể, như: Đói ăn, khát uống, nóng kiếm chỗ mát, lạnh kiếm chỗ ấm, ăn uống xong thì phải thải, truyền giống.. 2. Phần phản ứng nâng cao: Chỉ có sau khi tích lũy kinh nghiệm từ môi trường xã hội, môi trường sống, như: Đói, khát, nóng, lạnh, truyền giống, thải.. cũng phải nhìn trước, nhìn sau, tùy tình hình để thực hiện cho phù hợp với quy định chung của môi trường xã hội mình đang sống..

2.       Phân tích thêm mục 2 nhỏ của phần 1 trên, ta thấy, đa phần phản ứng của cá nhân với xã hội, phần vô thức lấn phần ý thức, nguyên do là vì quá tập trung ý thức vào một công việc nào đó, ý thức vào cái cụ thể. Một nguyên do khác cũng thường xảy ra là, ta chỉ ý thức vào một cái cụ thể nào đó chỉ được lúc đầu, lúc sau chỉ là các hoạt động vô ý thức, phản ứng máy móc theo những gì mình đã được học (theo kiểu phản xạ có điều kiện của Pavlov). Tình trạng nóng giận, bảo thủ cố chấp, thường xuyên ân hận về những việc mình đã làm.. là những biểu hiện của những hành động thiếu ý thức như nói trên.

3.       Phần thứ 2 là phần ý thức. Phần này là phần khó hình dung nhất, hầu như ai cũng tưởng mọi việc mình làm đều có ý thức, thật ra không phải, vì những việc gì mà khi ta làm có tình trạng bị cuốn theo, mê mải làm, hay quên mất chính mình đều là hiện tượng mất ý thức. Ý thức là phải được tách ra có khoảng cách với những việc ta đang làm. Khi ăn cơm ta như một người khác đang thấy ta đưa cơm vào mồm, miệng nhai, nước miếng tiết ra, thấy vị ngọt của cơm.. đấy là ăn cơm có ý thức. Việc thường xuyên tách ra khỏi bề mặt (phần bản năng) để chứng kiến các phản ứng của bề mặt sẽ tạo cho chúng ta thói quen sử dụng ý thức. Khi thường xuyên chứng kiến mọi biến động ngoài tâm sẽ làm tâm yên tịnh lại.


4.       Phần 3 phần Chân Tâm, Ý Thức Vũ Trụ.. phần này tồn tại một cách lặng lẽ, tràn đầy trong từng chúng sinh, vạn vật, khắp vũ trụ, không sinh ra, không mất đi.. phần này là phần khó nhận thấy nhất, tuy nhiên cũng có thể nhận ra bằng cách sau: Thường xuyên tách phần ý thức ra để thành phần chứng kiến các biến động ở bề mặt, biến động trong tâm cũng như các biến động ngoài tâm thấy biết mọi phản ứng của tâm (phần bề mặt) với những biến động xung quanh. Việc chỉ ý thức vào những phản ứng của tâm mà không can thiệp vào các biến động đó sẽ làm ý thức ngày càng hiện rõ lên. Để ý vào việc tách ý thức ra để dõi tâm ta sẽ thấy xuất hiện 2 tình trạng sau: 1. Ý thức sẽ bị mất khi ta tập trung ý thức cố định vào một vị trí nào đó, do ý thức đã bị nhập chung vào đối tượng mà ta đang focus. Khi ta tách ý thức ra đồng nghĩa với việc ta không focus vào cái cụ thể, mà thuần túy chỉ là ý thức, ý thức vào cái toàn thể. Ý thức vào cái toàn thể sẽ làm cho mọi hoạt động của tâm tĩnh dần lại, mọi ý niệm, khái niệm, phân tích, so sánh.. nói chung là các hoạt động của cái đầu bị tắt hẳn. ý thức toàn thể đó tạo thành hiện tượng rất lạ là ta tưởng đang hướng vào cảnh nhưng thật ra lại đang thấy phía trong ta. Người đang ý thức và cảnh thành một 2. Khi các hoạt động của tâm tĩnh lại, chỉ tồn tại ý thức thuần túy, ý thức cái toàn thể, ý thức bất ngờ xảy ra tình trạng lật ngược, đó là việc ý thức vào vùng đối nghịch với phần bề mặt, khu vực của tâm, để ý thức vào chính nó, cùng cái vùng tĩnh lặng mà đó đang nằm trong. Cái vùng ai cũng biết đó là Chân Tâm, là Niết Bàn.. nhưng thật sự ta biết được, trực nghiệm được nó chỉ khi ta đưa ý thức của ta nhập chung vào.

(Còn tiếp)

Comments

Popular posts from this blog

Ta Là Cái Đó - I Am That: Một cuốn sách tuyệt vời.

Rất nhiều tôn giáo và hệ thống triết học tự nhận đã đem lại ý nghĩa cho cuộc sống của nhân loại, nhưng tự thân các giáo điều và triết thuyết vẫn có những giới hạn  nhất định. Những nhà lập thuyết và chủ trương của các tôn giáo và triết thuyết đã vận dụng những ngôn từ hoa mỹ để trình bày các đức tin và ý thức hệ truyền thống của họ về thần học hay triết học, tuy nhiên,  không kinh điển nào có thể thay thế được sự hiện diện của đích thân Đạo sư. Chỉ khi nào Đạo sư trực thuyết với chúng ta thì ngôn từ mới trọn vẹn ý nghĩa.  Trong sự hiện diện của Đạo sư những biên giới cuối cùng do tâm vẽ ra đều biến mất. Sri NisargadatTa Maharaj đích thực là một Đạo sư như thế. Ông không thuyết giảng giáo điều kinh điển mà chỉ ra một cách chính xác những gì người tìm kiếm cần. Thực tại bắt nguồn nơi ông là bất khả chiếm đoạt, tuyệt đối và đích thực. Sau khi chứng nghiệm sự thật những gì Sri NisargadatTa Maharaj chỉ giáo trong “I Am That” nhiều người từ phương Tây đã đến gặp ông để t...

Nói qua một chút về cái toàn thể và trật tự ẩn của David Bohm

Thế hệ các nhà vật lý ngày nay bị ấn tượng với những thành quả đáng kinh ngạc của vật lý lượng tử, từ vũ khí hạt nhân đến laser. Họ bận rộn áp dụng cơ học lượng tử vào các lĩnh vực mà những tác giả nguyên thủy của nó không bao giờ tưởng tượng ra. Chẳng hạn, Stephen Hawking đã sử dụng lí thuyết ấy để mô tả sự hình thành của các hạt cơ bản từ các lỗ đen và lập luận rằng vũ trụ thành hình từ vụ nổ trong một sự kiện cơ học lượng tử. Trong hơn 30 năm đi ngược lại với xu thế phát triển của vật lý hiện đại, sự phản đối của David Bohm đối v ới những nền tảng của cơ học lượng tử đã dần kết hợp lại thành một sự mở rộng cho lý thuyết ấy, biến nó trở thành một cách nhìn nhận mới mẻ về thực tại. Với niềm tin rằng, bản chất của vật thể không thể quy giản về các mảnh (fragment) hay hạt (particle), ông biện minh cho cách nhìn toàn thể (holistic view) về vũ trụ. Ông yêu cầu ta cần phải học cách nhìn nhận vật chất và cuộc sống như một toàn thể (whole), lĩnh vực nhất quán mà ông gọi là trật tự ẩn (i...

10 Thể Nghiệm Thần Kỳ Nhất - 1 Giây Trước Khi Chết Con Người Rút Cuộc là Sẽ Nhìn Thấy gì?

Tiến sĩ Raymond Moody, nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ đã nghiên cứu 150 trường hợp trải qua trạng thái “chết lâm sàng” sau đó hồi sinh trở lại. Sau khi tập hợp những nghiên cứu trong vài thập kỷ ông đã xuất bản cuốn “Hồi ức về cái chết” nhằm giúp con người vạch ra chân tướng của cái chết. Có một sự tương đồng không thể xem nhẹ trong lời kể của những người đã “trải nghiệm cận kề cái chết” này, đại khái có thể quy về mười điểm sau: 1. Biết rõ về tin mình sẽ chết  – Họ tự mình nghe thấy bác sĩ hoặc người khác có mặt tại nơi đó tuyên bố rõ ràng về cái chết của mình. Anh ấy sẽ cảm thấy cơ thể trở nên yếu ớt đến cùng cực. 2. Trải nghiệm niềm vui  – ” Trải nghiệm cận kề cái chết ” ban đầu sẽ có cảm giác yên bình và thanh thản, khiến con người thấy vui sướng. Đầu tiên sẽ cảm thấy đau, nhưng nỗi đau này chỉ lóe lên rồi qua đi, sau đó sẽ thấy mình lơ lửng trong một không gian tăm tối, một cảm giác dễ chịu mà chưa từng được trải nghiệm bao bọc lấy anh. 3, Âm thanh kỳ...